Billy
Diego Armando Maradona
Diego Armando Maradona (sinh 30 tháng 10 năm 1960 tại Buenos Aires) là cựu cầu thủ bóng đá Argentina. Ông từng tham dự 4 World Cup bóng đá và nhận được danh hiệu cao quý, trong đó có danh hiệu Cầu thủ của thế kỉ do khán giả trên mạng bình chọn (danh hiệu do FIFA bình chọn thuộc về Pelé)[1] và xếp thứ 2 trong Danh sách 100 cầu thủ hay nhất thế giới thế kỷ 20 của World Soccer.
Maradona giành được nhiều danh hiệu với Boca Juniors, F.C. Barcelona và SSC Napoli trong sự nghiệp của mình. Ông khoác áo đội tuyển quốc gia Argentina 91 lần và ghi được 34 bàn thắng, tham dự 4 World Cup, dẫn dắt đội tuyển Argentina vô địch World Cup 1986, và giành luôn danh hiệu "Cầu thủ xuất sắc nhất" ở giải đấu này. Bàn thắng thứ hai trong trận gặp Anh ở giải đấu đó, một pha dẫn bóng đến 60 mét, lừa qua 6 cầu thủ Anh, được coi là Bàn thắng của thế kỉ hoặc ở Argentina là El barrilete cósmico (tiếng Tây Ban Nha).
Ngoài tài năng bóng đá, Maradona còn nổi tiếng vì phong cách chơi thiếu Fairplay của mình. Ông từng ghi bàn bằng tay trong trận tứ kết World Cup 1986 và hơn nữa, sử dụng chất kích thích: bị treo giò 15 tháng năm 1991 sau khi thử nghiệm có kết quả dương tính với cocaine ở Ý, một lần treo giò nữa với ephedrine trong giải World Cup 1994 ở Mỹ (bị cấm thi đấu quốc tế vĩnh viễn).
Sự nghiệp
[sửa]
Thời kỳ đầu (1969 - 1976)
Diego Maradona năm 1973.
Diego Maradona sinh ngày 30 tháng 10 năm 1960 tại bệnh viện Policlínico Evita ở tỉnh Lanús, Argentina. Diego là con trai đầu lòng và là đứa con thứ năm của ông bà Diego Maradona và Dalma Salvadora Franco. Cậu bé Diego Maradona lớn lên ở khu ổ chuột Villa Fiorito thuộc phía nam vùng Gran Buenos Aires. Ngay từ những ngày đầu tiếp xúc với trái bóng tròn, Diego đã tỏ ra thích thú với việc luyện tập thứ bóng đá tấn công vốn không hợp thời vào giai đoạn này khi mà trường phái phòng thủ Catenaccio mới là trường phái được ưa chuộng. Làm quen với bóng đá trên bãi đá bóng có tên Las Siete Canchitas ở Fiorito, tới năm 9 tuổi thì Diego tham gia thi tuyển vào tuyến trẻ của câu lạc bộ Argentinos Juniors. Vượt qua vòng tuyển chọn, Diego được xếp vào lớp bóng đá của lứa cầu thủ sinh năm 1960 có tên Los Cebollitas (Những củ hành) do Francisco Cornejo thành lập. Đội tuyển thiếu niên của Cornejo đã tham gia tranh giải Evita trong hai năm 1973 và 1974 dưới tên riêng vì Cornejo không muốn đăng ký cho đội thi đấu dưới danh nghĩa cơ sở huấn luyện của câu lạc bộ. Los Cebollitas đã giành chức vô địch ở cả hai giải đấu này đồng thời đoạt luôn chức vô địch giải hạng 8 (8ª division) vào năm 1974. Đây cũng là năm cuối cùng Cornejo gắn bó với đội vì Argentinos bắt đầu đăng ký thi đấu cho Liên đoàn bóng đá Argentina.
Đội bóng thiếu niên mà Diego thi đấu đã đạt được kỷ lục 136 trận liên tiếp bất bại[2] trong đó Los Cebollitas không chỉ đối đầu với các đội bóng trong nước mà còn thi đấu với những đội bóng của Perú và Uruguay. Ngày 28 tháng 9 năm 1971, mới ở tuổi lên 10 tài năng của Diego Maradona đã được nhắc tới trên tờ nhật báo Clarín, theo đó Diego được mô tả như "một cậu bé với vóc dáng bé nhỏ nhưng lại có tài năng của một vận động viên xuất sắc (crack)".[3] Bài báo này đã viết nhầm họ của cậu từ Maradona thành "Caradona".[2] Maradona cũng là một gương mặt quen thuộc đối với các cổ động viên của Argentinos Juniors vì cậu thường được chọn biểu diễn tâng bóng trong khoảng thời gian nghỉ giữa hai hiệp đấu của Argentinos. Nhờ tài nghệ tâng bóng của mình mà Diego đã được mời tham gia Sábados Circulares, một trong những chương trình truyền hình có nhiều người xem ở Argentina.[4]
Ngoài những trận đấu cho Los Cebollitas, Maradona, ở tuổi 12, đã bắt đầu thi đấu cho một số đội bóng ở hạng dưới của Argentinos. Do Diego chưa đủ tuổi đăng ký thi đấu nên huấn luyện viên của các đội bóng này buộc phải khai gian tuổi cho cậu và thậm chí là đăng ký cho Maradona thi đấu dưới một cái tên khác.[5] Giai đoạn thi đấu tạm này của Maradona kéo dài chẳng bao lâu vì khi vừa tròn 16 tuổi cậu đã được gọi ngay vào đội hình chính của câu lạc bộ Argentinos Juniors.
[sửa]
Giải hạng nhất và đội tuyển quốc gia (1976 - 1981)
Maradona trong trận đầu tiên khoác áo tuyển quốc gia Argentina tại trận đấu gặp Hungary năm 1977.
Maradona có trận đấu đầu tiên tại Giải vô địch bóng đá quốc gia Argentina (Primera División argentina) vào ngày 20 tháng 10 năm 1976. Trong trận đấu thuộc giải Campeonato Metropolitano này, câu lạc bộ Argentinos Juniors của Diego đã để thua đối thủ Talleres với tỉ số 1-0, Maradona với số áo 16 đã được vào sân thay Rubén Aníbal Giacobetti vào đầu hiệp thi đấu thứ hai. En la primera jugada que participó le realizó un "caño" (regate por bajo de las piernas) a un adversario, entusiasmando a la hinchada local. En referencia a esa tarde, Maradona dijo: "ese día toqué el cielo con las manos".[6] Một tháng sau vào ngày 14 tháng 11, Diego Maradona có bàn thắng đầu tiên vào lưới câu lạc bộ San Lorenzo ở Mar del Plata. Esa tarde convertiría otro tanto más, ambos al arquero Rubén Alberto Lucangioli.
Ngày 27 tháng 2 năm 1977, cầu thủ 16 tuổi Diego Maradona được chính thức gọi vào Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina trong trận đấu giao hữu với Đội tuyển bóng đá quốc gia Hungary trên sân La Bombonera, trong lần đầu gọi vào đội tuyển này, Diego đã ngay lập tức được thi đấu khi anh vào sân thay cho Leopoldo Jacinto Luque. Cùng trong năm này vào ngày 3 tháng 4, Maradona có trận đấu đầu tiên trong đội hình đội tuyển trẻ của Argentina vốn vừa thi đấu tồi tệ tại giải vô địch trẻ Nam Mỹ tổ chức ở Venezuela. Mặc dù tiếp tục được gọi thi đấu cho đội tuyển và có mặt trong số 24 cầu thủ tập trung chuẩn bị ở José C. Paz cho vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 1978 được tổ chức ngay tại Argentina nhưng cuối cùng Diego đã bị huấn luyện viên César Luis Menotti loại khỏi đội tuyển vào ngày 19 tháng 5 năm 1978, chỉ trước khi giải đấu diễn ra một tháng. Menotti cho rằng Diego còn quá trẻ để thi đấu cho tuyển quốc gia Argentina, sau đó ông đã dẫn dắt đội bóng này tới chức vô địch thế giới lần đầu tiên. Rời khỏi đội tuyển trong thất vọng, Diego quay trở lại thi đấu cho Argentinos trong trận đối đầu với Chacarita Juniors, ngay lập tức anh đã đích thân ghi hai bàn và có thêm hai đường chuyền thành bàn khác trong trận đại thắng 5-0 của Argentinos tại sân La Paternal. Năm 1977 Diego chính thức chọn Jorge Czysterpiller làm người đại diện cho anh, thực tế thì Czyterpiller đã làm công việc đại diện không chính thức cho anh từ giai đoạn trước đó.
Sau chức vô địch năm 1978, Menotti bắt tay vào xây dựng đội hình tuyển trẻ Argentina tham dự Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới tổ chức tại Nhật Bản năm 1979. Trong số vài đội hình được gọi Menotti gọi chuẩn bị thì Maradona tham gia thi đấu cho đội hình lớn (selección mayor), anh có bàn thắng đầu tiên cho Argentina trong trận thua 3-1 của đội này vào ngày 2 tháng 6 năm 1979 trước Scotland. Argentina cùng Uruguay và Paraguay đã lọt vào vòng chung kết của Giải trẻ thế giới 1979 sau Giải vô địch bóng đá trẻ Nam Mỹ tổ chức ở Montevideo.
Ngày 26 tháng 8 năm 1979 Argentina có trận đấu đầu tiên ở vòng chung kết Giải trẻ thế giới gặp Indonesia. Dễ dàng vượt qua đội bóng châu Á với tỉ số 5-0, Argentina tiếp tục vượt qua Nam Tư với tỉ số 1-0 vào ngày 28 và Ba Lan với tỉ số 4-1 vào ngày 30 để chiếm ngôi đầu bảng. Mặc dù Maradona không thi đấu ở trận tứ kết gặp Algérie, Argentina vẫn thắng đậm với tỉ số 4-0, đội bóng sau đó thắng tiếp Uruguay với tỉ số 2-0 trong trận bán kết để đối mặt với đội tuyển trẻ Liên Xô trong trận chung kết ngày 7 tháng 9 tại Tokyo. Chiến thắng 3-1 đã giúp tuyển trẻ Argentina bước lên bục cao nhất còn bản thân Maradona cũng được trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất vòng chung kết.
Trong màu áo Argentinos Juniors giai đoạn này, Diego Maradona liên tục giành danh hiệu Vua phá lưới các giải Metropolitano 1978, Metropolitano và Nacional 1979, Metropolitano và Nacional 1980, lập kỉ lục cầu thủ duy nhất từng năm lần có được danh hiệu này. Tuy nhiên thì vị trí cao nhất của Argentinos đạt được chỉ là vị trí thứ nhì vào mùa giải Metropolitano 1980 xếp sau River Plate.
[sửa]
Boca Juniors và giải vô địch thế giới đầu tiên (1981 - 1982)
Maradona trong màu áo Boca Juniors, năm 1981.
Mặc dù đã nhận được nhiều lời mời chào từ các câu lạc bộ khác nhưng Maradona chỉ quyết định rời Argentinos Juniors vào năm 1981. Vào thời điểm đó câu lạc bộ đưa ra đề nghị hậu hĩnh nhất với Maradona là River Plate với mức lương đề nghị ngang bằng với người hưởng lương cao nhất ở câu lạc bộ này khi đó là ngôi sao Ubaldo Fillol. Tuy nhiên Diego Maradona lại muốn thi đấu cho Boca Juniors, một đội bóng khi đó đang gặp khó khăn về tài chính và vì thế không thể có điều kiện để mua Diego. Cuối cùng Maradona đồng ý với bản hợp đồng cho mượn một năm rưỡi ở Boca, đội bóng cũng được giữ quyền mua đứt Diego nếu có thể.[7]
Ngày 20 tháng 2 năm 1981 hợp đồng của Maradona và Boca được hai bên ký kết, hai ngày sau anh có trận đấu ra mắt trong cuộc đọ sức giữa Boca và Talleres, đội bóng mà Maradona từng đối đầu trong trận đấu chuyên nghiệp đầu tiên. Khác với trận thua trước kia trong màu áo Argentinos, lần này Maradona đã đem lại chiến thắng cho Boca bằng cách góp 2 bàn trong trận thắng 4-1 của Boca trước kỳ phùng địch thủ. Maradona jugó ese partido infiltrado, ya que durante el último entrenamiento con Argentinos había sufrido una molestia muscular en su pierna derecha. Sin embargo continuó jugando hasta que el 8 de marzo se le detectó un pequeño desgarro, que lo alejó de los estadios hasta el 29 de ese mes. Días después de su recuperación, el 10 de abril, jugó su primer superclásico frente a River, en La Bombonera. El partido se disputó una noche lluviosa y terminó con el triunfo de Boca por 3:0, con dos goles de Miguel Brindisi y uno de gran calidad de Maradona, en el que dejó por el piso a Fillol y Tarantini con sucesivos amagues y gambetas.[8]
En sus primeros meses en Boca, Maradona sufrió varios inconvenientes. En un principio la relación con Silvio Marzolini, al igual que con muchos de los entrenadores que lo dirigieron, no era del todo buena ya que no le brindaba las mismas prerrogativas que poseía en Argentinos, y tenía ciertas exigencias, en cuanto a concentraciones y entrenamientos, que Maradona no soportaba. Además, el equipo sufría presiones de La 12, la barra brava de Boca. En una ocasión, tras empatar cuatro partidos en forma consecutiva, el jefe de la barra José Barritta, apodado El Abuelo, ingresó armado junto a varios integrantes de la hinchada para exigirles mejores resultados.[9] [[Archivo:Gol maradona river.jpg|thumb|left|Maradona en su primer Superclásico, donde convierte frente a Fillol y Tarantini]] A pesar de estas presiones, el equipo logró hacer una buena campaña. El 9 de agosto, una fecha antes del final del Metropolitano de 1981, Boca tenía la posibilidad de consagrarse campeón si conseguía un empate frente a Rosario Central, en Rosario. Sin embargo, el partido, en el que Maradona erró un penal, terminó con un triunfo de los rosarinos por 1:0. La revancha sería una semana después frente a Racing Club de local, encuentro que terminó 1:1 y le brindó su único título conseguido en el fútbol argentino.
El Campeonato Nacional de 1981 fue un fracaso, ya que el equipo cayó en los cuartos de final frente a Vélez Sarsfield. Esta mala actuación se debió a la gran cantidad de partidos amistosos que disputaba Boca para mejorar su situación económica, que terminaron agotando a los jugadores. En enero de 1982 se disputó el Torneo de Verano, donde Maradona jugaría sus últimos encuentros en Boca ya que luego debió concentrarse con la selección para el Mundial de España. El último partido fue el 6 de febrero frente a River, el que finalizó con una derrota. Se alejaría de Boca Juniors jugando 40 partidos y convirtiendo 28 goles.
La preparación para la Copa Mundial de Fútbol de 1982 incluyó una concentración de cuatro meses. Antes de comenzar el Mundial, el pase de Maradona al FC Barcelona ya se había concretado, por lo que en Cataluña existía mucha expectativa por el rendimiento del jugador Argentino. Esa misma expectativa existía en la Argentina con la selección, ya que los logros obtenidos en el Mundial anterior y en el Mundial Juvenil entusiasmaban a los fanáticos del fútbol.
El seleccionado argentino debutó el 13 de junio frente a Bélgica, en Barcelona. El primer partido terminó con una derrota por 1:0 en el estadio Camp Nou, en Barcelona. El segundo partido fue un triunfo por 4:1 frente a Hungría, donde convirtió sus dos primeros goles mundialistas. El triunfo por 2:0 frente a El Salvador, por el último partido del Grupo C, significó la clasificación de la selección argentina a la segunda ronda.
La segunda ronda se encontraba constituida, en ese entonces, por una fase de cuatro grupos cuyo ganador clasificaba a las semifinales. El Grupo 3 estaba integrado por la Argentina, Italia, quien se adjudicó el torneo, y Brasil. El primer partido se disputó el 29 de junio, y fue una derrota por 2:1 frente a Italia. El segundo y último partido fue otra derrota por 3:1 frente a Brasil, encuentro en el que Maradona fue expulsado tras pegarle una violenta patada a Batista. De esta forma Argentina fue eliminada del mundial, defraudando las expectativas que existían en el país.[10]
[sửa]
Câu lạc bộCLB Quốc gia Năm Trận đấu Bàn thắng
Argentinos Juniors Argentina 1976-1981 166 116
Boca Juniors Argentina 1981-1982 40 28
FC Barcelona Tây Ban Nha 1982-1984 58 38
SSC Napoli Ý 1984-1991 259 115
Sevilla FC Tây Ban Nha 1992-1993 29 7
Newell's Old Boys Argentina 1993-1994 5 0
Boca Juniors Argentina 1995-1997 31 7
[sửa]
Thống kêChú thích
PJ Trận đấu PG Trận thắng PE Trận hòa PP Trận thua %PG Tỉ lệ trận thắng G Bàn thắng PGP Tỉ lệ bàn thắng * Vua phá lưới
[sửa]
Sự nghiệp cầu thủ
[sửa]
Câu lạc bộNăm Quốc gia CLB Giải đấu PJ G PGP
1976 Argentina Argentinos Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Nacional 11 2 0,18
1977 Argentina Argentinos Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Metropolitano 37 13 0,35
1977 Argentina Argentinos Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Nacional 12 6 0,5
1978 Argentina Argentinos Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Metropolitano 31 22* 0,71
1978 Argentina Argentinos Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Nacional 4 4 1
1979 Argentina Argentinos Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Metropolitano 14 14* 1
1979 Argentina Argentinos Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Nacional 12 12* 1
1980 Argentina Argentinos Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Metropolitano 32 25* 0,78
1980 Argentina Argentinos Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Nacional 13 18* 1,38
1981 Argentina Boca Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Metropolitano 28 17 0,6
1981 Argentina Boca Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Nacional 12 11 0,92
1982/83 Tây Ban Nha FC Barcelona Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha 20 11 0,55
1982/83 Tây Ban Nha FC Barcelona Cúp Nhà vua Tây Ban Nha 5 3 0,6
1982/83 Tây Ban Nha FC Barcelona Cúp C2 Châu Âu 4 5 1,25
1982/83 Tây Ban Nha FC Barcelona Copa de la Liga 6 4 0,66
1983/84 Tây Ban Nha FC Barcelona Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha 16 11 0,69
1983/84 Tây Ban Nha FC Barcelona Cúp Nhà vua Tây Ban Nha 4 1 0,25
1983/84 Tây Ban Nha FC Barcelona Cúp C2 3 3 1
1984/85 Ý SSC Napoli Giải vô địch bóng đá Ý 30 14 0,47
1984/85 Ý SSC Napoli Cúp quốc gia Ý 6 3 0,5
1985/86 Ý SSC Napoli Giải vô địch bóng đá Ý 29 11 0,38
1985/86 Ý SSC Napoli Cúp quốc gia Ý 2 2 1
1986/87 Ý SSC Napoli Giải vô địch bóng đá Ý 29 10 0,34
1986/87 Ý SSC Napoli Cúp quốc gia Ý 10 7 0,7
1986/87 Ý SSC Napoli Cúp C3 2 0 0
1987/88 Ý SSC Napoli Giải vô địch bóng đá Ý 28 15* 0,54
1987/88 Ý SSC Napoli Cúp quốc gia Ý 9 6* 0,66
1987/88 Ý SSC Napoli Cúp C1 2 0 0
1988/89 Ý SSC Napoli Giải vô địch bóng đá Ý 26 9 0,35
1988/89 Ý SSC Napoli Cúp quốc gia Ý 12 7 0,58
1988/89 Ý SSC Napoli Cúp C3 12 3 0,25
1989/90 Ý SSC Napoli Giải vô địch bóng đá Ý 28 16 0,57
1989/90 Ý SSC Napoli Cúp quốc gia Ý 3 2 0,66
1989/90 Ý SSC Napoli Cúp C3 5 0 0
1990/91 Ý SSC Napoli Giải vô địch bóng đá Ý 18 6 0,33
1990/91 Ý SSC Napoli Cúp quốc gia Ý 3 2 0,66
1990/91 Ý SSC Napoli Cúp C1 4 2 0,5
1990/91 Ý SSC Napoli Supercopa de Italia 1 0 0
1992/93 Tây Ban Nha Sevilla FC Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha 26 4 0,15
1992/93 Tây Ban Nha Sevilla FC Cúp Nhà vua Tây Ban Nha 3 3 1
1993 Argentina Newell's Old Boys Giải vô địch bóng đá Argentina - Apertura 5 0 0
1995 Argentina Boca Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Apertura 11 3 0,27
1996 Argentina Boca Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Clausura 13 2 0,15
1997 Argentina Boca Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Clausura 1 0 0
1997 Argentina Boca Juniors Giải vô địch bóng đá Argentina - Apertura 5 2 0,4
1997 Argentina Boca Juniors Siêu cúp bóng đá Nam Mỹ 1 0 0
[sửa]
Tuyển quốc gia
Diego Maradona chỉ thi đấu duy nhất cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina:Năm Đội Giải đấu PJ G PGP
1977 Tuyển quốc gia Giao hữu 3 0 0
1977 Tuyển trẻ Giải vô địch bóng đá U-20 Nam Mỹ 3 0 0
1977 Tuyển trẻ Giao hữu 2 1 0,5
1978 Tuyển quốc gia Giao hữu 1 0 0
1978 Tuyển trẻ Giao hữu 5 4 0,8
1979 Tuyển quốc gia Copa América 1 0 0
1979 Tuyển quốc gia Giao hữu 7 2 0,29
1979 Tuyển trẻ Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 6 6 1
1979 Tuyển trẻ Giải vô địch bóng đá U-20 Nam Mỹ 5 1 0,2
1979 Tuyển trẻ Giao hữu 3 1 0,33
1980 Tuyển quốc gia Giao hữu 10 7 0,7
1981 Tuyển quốc gia Giao hữu 2 1 0,5
1982 Tuyển quốc gia Giải vô địch bóng đá thế giới 5 2 0,4
1982 Tuyển quốc gia Giao hữu 5 0 0
1985 Tuyển quốc gia Giải vô địch bóng đá thế giới 6 4 0,66
1985 Tuyển quốc gia Giao hữu 4 3 0,75
1986 Tuyển quốc gia Giải vô địch bóng đá thế giới 7 5 0,71
1986 Tuyển quốc gia Giao hữu 3 2 0,66
1987 Tuyển quốc gia Copa América 4 3 0,75
1987 Tuyển quốc gia Giao hữu 2 1 0,5
1988 Tuyển quốc gia Giao hữu 3 1 0,33
1989 Tuyển quốc gia Copa América 6 0 0
1989 Tuyển quốc gia Giao hữu 1 0 0
1990 Tuyển quốc gia Giải vô địch bóng đá thế giới 7 0 0
1990 Tuyển quốc gia Giao hữu 3 1 0,33
1993 Tuyển quốc gia Giải vô địch bóng đá thế giới 2 0 0
1993 Tuyển quốc gia Cúp Artemio Franchi 1 0 0
1993 Tuyển quốc gia Giao hữu 1 0 0
1994 Tuyển quốc gia Giải vô địch bóng đá thế giới 2 1 0,5
1994 Tuyển quốc gia Giao hữu 5 1 0,2
[sửa]
Sự nghiệp huấn luyệnNăm Quốc gia Đội PJ PG PE PP %PG
1994 Deportivo Mandiyú 12 1 6 5 8,3%
1995 Racing Club 11 2 6 3 18,2%
Desde 2008 Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina 17 12 0 5 70,6%
[sửa]
Thành tích
[sửa]
Giải quốc gia
1981, Vô địch Giải vô địch bóng đá quốc gia Argentina - Metropolitano - Boca Juniors (Argentina)
1983, Vô địch Cúp Nhà vua Tây Ban Nha - FC Barcelona (Tây Ban Nha)
1983, Vô địch Copa de la Liga - FC Barcelona (Tây Ban Nha)
1984, Vô địch Siêu cúp Tây Ban Nha - FC Barcelona (Tây Ban Nha)
1987, Vô địch Giải vô địch bóng đá quốc gia Ý - SSC Napoli (Ý)
1987, Vô địch Cúp quốc gia Ý - SSC Napoli (Ý)
1990, Vô địch Giải vô địch bóng đá quốc gia Ý - SSC Napoli (Ý)
1990, Vô địch Siêu cúp Ý - SSC Napoli (Ý)
[sửa]
Giải quốc tế
1979, Vô địch Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới - Đội tuyển trẻ Argentina
1986, Vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1986 - Đội tuyển quốc gia Argentina
1989, Vô địch Cúp C2 châu Âu - SSC Napoli
1993, Vô địch Cúp Artemio Franchi - Đội tuyển quốc gia Argentina
[sửa]
Giải vô địch bóng đá thế giới
Giải vô địch bóng đá thế giới 1982 - (Argentina) - thứ 11
Giải vô địch bóng đá thế giới 1986 - (Argentina) - Vô địch
Giải vô địch bóng đá thế giới 1990 - (Argentina) - Á quân
Giải vô địch bóng đá thế giới 1994 - (Argentina) - thứ 10
[sửa]
Danh hiệu cá nhân
Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá quốc gia Argentina - Metropolitano - (1978, 1979 và 1980)
Cầu thủ xuất sắc nhất Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới tại Nhật Bản - (1979)
Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá quốc gia Argentina - Nacional - (1979 và 1980)
Olimpia de Oro al Mejor Deportista Argentino, según el Círculo de Periodistas Deportivos (CPD) - (1979, 1980, 1986)
Olimpia de Plata al Mejor Deportista Argentino, según el Círculo de Periodistas Deportivos (CPD) - (1979, 1980, 1981, 1986)
Balón de Oro al Mejor Futbolista del año, según el Centro de Periodistas Acreditados en la AFA (CEPA) - (1979, 1980, 1981)
Mejor Futbolista de América, según encuesta diario El Mundo, de Caracas - (1979, 1980, 1986, 1989, 1990 y 1992)
Diploma al Mérito Konex - (1980 y 1990)
Trofeo Gandulla al Mejor Futbolista del Año - (1981)
Danh hiệu Đại sứ của UNICEF - (1985)
Cầu thủ xuất sắc nhất (Quả bóng vàng) Giải vô địch bóng đá thế giới 1986 do FIFA bình chọn - (1986)
Đứng thứ hai danh sách Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá thế giới 1986 - (1986)
Pluma de Oro al Mejor Deportista de Europa - (1986)
Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu (Onze d'Or) do tạp chí Onze bình chọn - (1986 và 1987)
Designado entre los Siete Magníficos del deporte, por Gueron Sportivo - (1986)
Cầu thủ của năm do World Soccer Magazine bình chọn - (1986)
Danh hiệu Công dân danh dự (Ciudadano Ilustre) do Thành phố Buenos Aires trao tặng - (1986)
Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá quốc gia Ý - (1987)
Vua phá lưới Cúp quốc gia Ý - (1988)
Quả bóng đồng Giải vô địch bóng đá thế giới 1990 do FIFA bình chọn - (1990)
Danh hiệu Đại sứ thể thao (Embajador Deportivo) do Tổng thống Argentina phong tặng - (1990)
Premio Konex de Brillante - (1990)
Premio Konex de Platino - (1990)
Danh hiệu Cầu thủ bóng đá Argentina xuất sắc nhất mọi thời đại do Liên đoàn bóng đá Argentina (AFA) trao tặng - (1993)
Elegido Maestro Inspirador de Sueños por la Universidad de Oxford, Inglaterra - (1995)
Quả bóng vàng danh dự cho sự nghiệp thi đấu do France Football trao tặng - (1995)
Đứng thứ hai trong danh sách Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất mọi thời đại do các cầu thủ từng đoạt Quả bóng vàng bầu chọn - (1999)
Danh hiệu Bàn thắng đẹp nhất trong lịch sử bóng đá - (1999)
Olimpia de Platino al Deportista Argentino del siglo XX, según el Círculo de Periodistas Deportivos (CPD) - (1999)
Danh hiệu Vận động viên thể thao của thế kỷ (Deportista del Siglo) do nhật báo Diario Clarín bầu chọn - (1999)
Danh hiệu Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất mọi thời đại (Fifa Internet Award) do FIFA tổ chức - (2000)
Một trong các Vận động viên thể thao xuất sắc nhất châu Mỹ Latinh thế kỷ 20 do hãng thông tấn Prensa Latina tại La Habana bình chọn - (2003)
Một trong các cầu thủ của danh sách FIFA 100 - (2004)
Premio Domingo Faustino Sarmiento entregado por el Senado de la Nación Argentina - (2005)
Declarado deportista meritorio y vecino ilustre del partido de Ezeiza - (2007)